Khám phá lịch sử đồng tiền Hàn Quốc

Write By: dulichqag Published In: Quốc tế Created Date: 2016-11-29 Hits: 3023 Comment: 0

Đồng tiền không chỉ là công cụ thiết yếu trong xã hội loài người mà còn trở thành một tín hiệu của văn hóa, của lịch sử và chính trị của mỗi quốc gia.

Đa số các quốc gia thường in hình danh lam thắng cảnh, kiến trúc, động thực vật và nhiều nhất là các danh nhân tiêu biểu của dân tộc. Dưới đây Du lịch Quốc Anh sẽ cùng bạn đọc Khám phá lịch sử đồng tiền Hàn Quốc.
 
PHẦN 1: TIỀN XU Ở HÀN QUỐC
Tổng quan về tiền xu ở Hàn Quốc
Đất nước Hàn Quốc sử dụng phổ biến cả tiền giấy và tiền xu. Tiền xu có 5 loại mệnh giá là đồng 10 won, 50 won, 100 won và 500 won với kích cỡ khác nhau; và tiền giấy có 4 loại mệnh giá, gồm tờ 1.000 won, 5.000 won, 10.000 won và 50.000 won.
Các mệnh giá tiền Hàn Quốc đang áp dụng trong lưu thông:
– 1 Won: tiền kim loại bằng nhôm, màu trắng.
– 5 Won: tiền kim loại bằng hợp kim đồng và kẽm, màu vàng.
– 10 Won: tiền kim loại bằng hộp kim đồng và kẽm màu vàng (hoặc hợp kim đồng và nhôm màu hồng).
– 50 Won: tiền kim loại bằng hợp kim đồng, nhôm và nickel, màu trắng.
– 100 Won: tiền kim loại bằng hợp kim đồng và nickel, màu trắng.
– 500 Won: tiền kim loại bằng hợp kim đồng và nickel, màu trắng.
– 1.000 Won: tiền giấy, màu xanh da trời.
– 5.000 Won: tiền giấy, màu đỏ và vàng.
– 10.000 Won: tiền giấy, màu xanh lá cây.
 
Won là đơn vị tiền tệ của Đại Hàn Dân Quốc được sử dụng chính thức từ ngày 9/6/1962. Tên đầy đủ của nó là Won Đại Hàn Dân Quốc. Mã ISO 4217 của đồng Won Hàn Quốc là KRW. Ký hiệu quốc tế là ₩ (chữ W với hai gạch ngang qua). Won là cách viết chệch từ chữ Weon (원, Viên), nhưng từ ngày 9/6/1962 Ngân hàng Hàn Quốc tuyên bố sẽ không dùng chữ Hán cho chữ này nữa. Trước đó tiền tệ của Hàn Quốc gọi là Hwan (환, Hoàn)
 
Như vậy, đồng 10 won là đồng tiền mệnh giá nhỏ nhất và thường không sử dụng nhiều trên thị trường, thậm chí cũng không sử dụng được để nạp thẻ xe bus hay mua hàng trên máy bán hàng tự động. Tuy nhiên, đồng tiền này vẫn rất có ích trong 1 số trường hợp nhất là khi bạn mua những mặt hàng mà giá thành hơi lẻ 1 chút. Đồng 50.000 won là đồng tiền mệnh giá cao nhất và bắt đầu được đưa vào lưu thông trên thị trường từ năm 2009, tuy nhiên do trị giá cao nên nó cũng không được sử dụng phổ biến trong mua bán hàng ngày.
 
Đồng xu 10 won
Những hình vẽ trên đồng tiền Hàn Quốc đều liên quan đến một biểu tượng văn hóa cụ thể của quốc gia này. Trên đồng 10 won, bạn có thể nhìn thấy hình tháp Dabo (Đa Bảo Tháp – 다보탑) – tòa tháp tiêu biểu của ngôi chùa nổi tiếng Phật Quốc tự (Bulguksa) ở thành phố Gyeongju. Ngôi chùa nằm ở tỉnh Bắc Gyeongsang này được biết tới là một biểu tượng tôn giáo, văn hóa của Hàn Quốc và đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới. Nơi đây đang lưu giữ 7 quốc bảo của Hàn Quốc trong đó có tháp đá Dabo nói trên cùng với tháp Seokga (Thích Ca Tháp), cầu Cheongun (Thanh Vân Kiều – Cầu Mây Xanh) và tượng Phật bằng đồng dát vàng.
Đồng xu 50 won
Nếu đồng 10 won được khắc hình ảnh một di tích văn hóa, lịch sử thì trên đồng 50 won lại là hình ảnh bông lúa – biểu tượng của nền nông nghiệp lúa nước. Mặc dù ngày nay đã trở thành 1 quốc gia công nghiệp phát triển, nhưng người dân Hàn Quốc chưa bao giờ quên truyền thống nông nghiệp của đất nước mình và cho đến bây giờ, cây lúa vẫn đóng vai trò rất quan trọng với đời sống người dân nơi đây.
Đồng xu 100 won
Tiếp theo đồng 50 won, đồng 100 won được in hình tướng quân Yi Sun Shin (Lý Thuấn Thần). Ông sinh năm 1545 và mất năm 1598, ông được biết đến là một viên tướng thuỷ quân nổi tiếng của triều đại Joseon, lập nhiều chiến công trong các trận chiến chống lực lượng hải quân Nhật Bản thời chiến tranh Nhật – Triều (1592-1598). Yi Sun Shin là một vị tướng yêu nước, nhà chiến lược tài ba của hải quân triều đại Joseon. Không chỉ có vậy ông còn được vinh danh là 1 trong 10 tướng quân vĩ đại nhất trong lịch sử hải quân thế giới. Nếu như người Việt Nam vẫn tự hào tưởng nhớ tới tướng quân Ngô Quyền với chiến thắng lừng lẫy đánh đuổi quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 thì trong trái tim của người Hàn Quốc luôn ngự trị hình ảnh của Yi Sun Shin với các trận thắng liên tiếp đánh bại hải quân Nhật. Chiến thắng vang dội và mang tầm ảnh hưởng lớn của ông có thể kể đến như trận thắng đầu tiên trước quân Nhật vào năm 1592 tại hải phận Okpo, trận Myeongnang năm 1596, trận Noryang năm 1598… Chiến thắng hải quân của ông giúp triều đại Joseon kiểm soát được vùng biển cũng như đánh bại được quân Nhật với việc cắt đứt được nguồn cung cấp cho quân đội Nhật đang chiếm đóng tại Hàn lúc bấy giờ.
Tướng quân Yi Sun-shin từng khích lệ tinh thần quân sĩ bằng khẩu lệnh Liều thì sống, sợ thì chết. Một trận thủy chiến đã đi vào sử sách như một chiến công huyền thoại khi ông đã chỉ huy lực lượng hải quân đánh bại 133 chiến hạm của quân Nhật trong khi đó lực lượng của ông chỉ có 13 tàu chiến nhỏ. Chiến công hiển hách nhất này thể hiện tinh thần chiến đấu quả cảm của binh lính cũng như tài thao lược của ông.
Ông chính là người đã chế tạo thuyền chiến bọc thép đầu tiên trên thế giới mang tên Geobukseon hay còn gọi là Tàu Con Rùa. Nhờ việc huấn luyện kĩ càng lực lượng hải quân cùng sức mạnh của tàu Con Rùa mà ông đã lập nên chiến công hiển hách đầu tiên khi chạm chán với quân Nhật vào năm 1592. Vỏ tàu được ghép bởi các tấm gỗ nhỏ. Phía trên sàn tàu được ghép bằng những tấm gỗ chữ thập đan chéo nhau, để một lối đi nhỏ vừa đủ một người đứng. Các phần còn lại của con tàu được cài những mũi chông nhỏ. Phía đầu con tàu treo một chiếc đầu rồng, phía đuôi treo một chiếc đuôi rùa. Hai bên thân trái, thân phải của tàu được khoét 6 lỗ để đặt súng đại bác. Khi tiếp giáp quân giặc, con tàu nhanh chóng tách ra trở thành đội tiên phong trong hạm đội. Bất kỳ tên giặc nào trèo lên hoặc nhảy xuống sẽ bị chết bởi những mũi chông được ghép quanh thân tàu. Khi các tàu chiến của giặc bị tấn công bất ngờ, chúng sẽ không còn đường thoát bởi những viên đại bác được bắn ra đồng loạt. Chính vì thế mà Yi Sun-shin và lực lượng hải quân của ông là nối khiếp sợ của quân địch.
Bị trúng đạn của hải quân Nhật và hi sinh trong trận Noryang năm 1598 để lại sự tiếc nối và nỗi đau mất mát lớn cho người dân Hàn Quốc. Trước khi chết ông còn dặn dò đừng để mọi người biết mình chết. Vì sợ rằng quân lính mất tinh thần chiến đấu còn quân địch thì sẽ thêm phần phấn chấn. Trước đó, ông đã lãnh đạo cuộc chiến nhấn chìm hơn 10 nghìn quân địch xuống biển Noryang, kết thúc cuộc chiến 7 năm chống quân Nhật xâm lược. Người anh hùng này còn để lại cho hậu thế cuốn nhật ký vô giá ghi lại toàn bộ cuộc sống chiến tranh trong 7 năm của ông, từ ngày 1 tháng 1 năm 1592 đến ngày 17 tháng 11 năm 1598, tức 2 ngày trước khi ông mất.
 
Đồng xu 500 won
Đồng tiền xu có mệnh giá lớn nhất 500 won được in hình chim hạc. Đây là 1 biểu tượng quen thuộc với nhiều quốc gia phương Đông, còn đối với Hàn Quốc, con chim hạc trên đồng xu 500 won này tượng trưng cho sự phát triển và trường tồn mãi mãi.
 
 
PHẦN 2: TIỀN GIẤY Ở HÀN QUỐC
Đồng 1.000 won
Nếu trong các loại tiền xu ở Hàn Quốc, chỉ có duy nhất đồng tiền mệnh giá 100 won có in hình người thì đối với tiền giấy, các hình vẽ trên đó đều là hình các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử đất nước này. Đồng tiền giấy mệnh giá nhỏ nhất là 1.000 won được in hình nhà triết học Nho giáo và là người thầy giáo vĩ đại nhất thời Joseon – Yi Hwang (이왕) (1501-1570). Sinh năm 1501 tại huyện Ye-an (ấp Dosan, quận Andong ngày nay), Yi Hwang mồ côi cha và sống với mẹ từ khi lên 2. Yi Hwang luôn được mẹ nhắc nhở phải có cử chỉ cao đẹp và cố gắng học hành hơn người dù hoàn cảnh khó khăn.
 
Quyết không để sự nghèo đói và không cha làm cho người đời miệt thị, Yi Hwang nỗ lực chú tâm vào việc học hành. 12 tuổi, Yi Hwang chính thức học Luận Ngữ, một trong bộ Tứ thư kinh điển của Nho giáo và tiếp tục theo học tại Viện giáo dục danh tiếng nhất thời Joseon, Viện Sungkyunkwan khi 22 tuổi. 11 năm sau đó, ông đỗ đạt qua các kỳ thi cử và giữ nhiều trọng chức như tổng quản, thái sư, quan bộ thư. Nhưng Yi Hwang đã quyết định rời chốn quan trường để trở về quê hương. Ông được triều đình trọng vọng đến mức giao phó nắm giữ 140 chức trách trước khi từ giã cõi đời ở tuổi 70. Yi Hwang đã từng 79 lần xin từ chức và nói rõ nguyện vọng, ông không coi trọng quyền cao chức trọng, vinh hoa phú quý mà muốn theo đuổi con đường học vấn để giữ cử chỉ cao đẹp. Ông có hiệu là Toe Gye (Thôi Khê) có nghĩa là “lui về trên núi” bởi dẫu mang trong mình tài năng lỗi lạc và được triều đình hết mực trọng vọng nhưng ông không màng đến danh lợi chốn quan trường mà chỉ mong được lui về ẩn cư, dạy học nơi quê hương.
 
Học thuyết Nho giáo ở Trung Quốc sau khi được sáng lập bởi Khổng Tử và phát triển, mở rộng bởi Mạnh Tử đã trở thành tư tưởng chính thống của phương Đông. Chu Hy thời nhà Tống đã tổng hợp học thuyết này thành Tân Nho giáo, nghiên cứu những vấn đề căn bản của con người và vũ trụ. Sau đó, Yi Hwang đã phát triển và sáng lập thuyết Minh triết, coi đạo lý là đặc tính căn bản của Nho giáo. Thế kỷ 16, thuyết Minh triết vốn coi trọng kiến thức trải nghiệm đã tạo nên một dòng mới cho Tân Nho giáo. Toe Gye coi việc học hỏi một điều gì đó chính là việc giác ngộ đạo lý của cuộc sống, hiểu thêm về con người, cuộc đời và thông qua đó tìm được hình ảnh thật của chính mình. Lấy học thuyết Lý Khí (coi Nguyên lý và Sinh khí của một vật như 2 yếu tố có quan hệ tương hỗ “một mà hai, hai mà một”) làm tư tưởng chủ đạo, Yi Hwang đã xây dựng Trường Yeongnam tại tỉnh Gyeongsang, thành lập điện Dosan, tận tâm với việc nghiên cứu và đào tạo hậu duệ. Ông được biết đến như một nhà triết học giáo dục vĩ đại nhất thời Joseon. Toe-gye luôn giữ thái độ khiêm tốn của một học giả. Ông không hề phân biệt vai vế khi tranh luận học vấn với các nhà triết học thuộc thế hệ sau như Ki Dae Seung, Lee Yi. Toe Gye xứng đáng được gọi là “Chu Hy của phương Đông”.
 
Trên thực tế, trọng tâm tư tưởng triết học của Toe-gye có thể được thể hiện ngắn gọn bằng một từ “kính”, tức là chỉ sự tôn trọng, khiêm tốn của mình đối với tất cả mọi người và vạn vật. Tuy nhiên, từ “kính” lại được thay bằng từ “hài hòa” khi áp dụng vào thế kỷ 21. Vì nếu tất cả con người và giới tự nhiên cùng sống dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau thì sẽ tạo ra sự hài hòa trên thế giới, theo đó giải quyết được những biến đổi khí hậu, mâu thuẫn xã hội hay tranh chấp giữa các quốc gia. Tư tưởng Nho giáo Toe Gye lần đầu tiên đã gây ảnh hưởng cho người Nhật trong cuộc chiến Nhật – Triều 1592-1598. Ngày nay, các nước trên thế giới như Trung Quốc, Mỹ, châu Âu cũng đã và đang tiến hành các Hội thảo khoa học quốc tế về triết học Toe Gye và nghiên cứu tư tưởng đó như một biện pháp giải quyết các vấn đề của thế kỷ 21.
Phía sau hình học giả Yi Hwang là đại giảng đường chính có tên là Myeongnyundang (명륜당) và hình ảnh hoa mai (매화), loài hoa mà Yi Hwang yêu thích.
Mặt sau của tờ tiền 1.000 won là phong cảnh 계상정거도 (溪上靜居圖, Khê thượng tĩnh ký đồ) và trường học Dosan, nơi Yi Hwang lui về ở ẩn để nghiên cứu và giảng dạy cho các học trò.
 
Đồng 5.000 won
Ngoài đồng 1.000 won, trên đồng tiền mệnh giá 5.000 won của Hàn Quốc cũng được khắc hình của một học giả Nho giáo nổi tiếng khác thời Joseon là Yi I, hiệu Yulgok (Lật cốc). Cùng với Yi Hwang, Yi I cũng là một học giả hàng đầu của Joseon. Song, nếu như Yi Hwang từ bỏ quan chức, về xây dựng một cộng đồng văn hóa Nho giáo độc lập tại vùng Andong, tỉnh Bắc Gyeongsang thì Yi I lại là người đưa học vấn vào, hiện thực hóa học vấn trong hoạt động chính trị. Cuộc đời của học giả Yi I là cuộc đời của một nhà tri thức chân chính, có con mắt tinh tường và tình cảm nồng cháy luôn hướng về quốc gia, hướng về bá tính.
 
Đến năm Yi I 16 tuổi, ông lên núi Geumgang để học về Phật giáo, năm 20 tuổi, đọc sách Luận ngữ, hiểu ra nhiều điều ông mới quay về quê hương Ô Trúc Viên (오죽헌 / Ohjukheon, 烏竹軒). Những tháng năm bôn ba và sự trưởng thành ở con người đã làm nền tảng tích lũy kiến thức, đem lại tài năng trị nước sau này cho vị đại học giả. Thực tế, khi 23 tuổi Yi I từng tìm đến đàm đạo với học giả Yi Hwang lúc này đã 58 tuổi để nhìn nhận lại về hướng đi trong cuộc sống. Yi I đã chọn con đường đến với hiện thực để thực hiện chí lớn của mình. Năm đó ông dự khóa Biệt Thí, đỗ trạng nguyên với bài thi viết về “Thiên Đạo sách”, giải thích lý luận về học thuyết “lý – khí”, coi sự vật trên thế gian là sự kết hợp tuyệt diệu của “lý” và “khí”. Tính đến khóa “Điện Thí”, khóa thi chọn quan văn mà ông tham gia năm 29 tuổi thì tổng cộng ông đã 9 lần tham gia các kỳ khoa cử và tất cả đều đỗ đầu bảng. Cũng vì thế, người ta còn gọi ông là Cửu Độ Trạng Nguyên Công.
Thế kỷ 16 ở Joseon cũng là giai đoạn thế thường có nhiều sự lẫn lộn đảo điên. Kỷ cương, phép tắc của tầng lớp cai trị bị buông lỏng và do đó, tình hình chính trị rơi vào hỗn loạn, sự suy yếu về kinh tế của người dân trở thành vấn đề xã hội nghiêm trọng. Để chỉnh đốn lại mọi việc, cứu giúp dân sinh, Yi I đã lập ra hương ước và đưa ra phương án cải cách gọi là Xã hội canh trương luận. Về đại thể, đây là phương án cho thấy nhà nước cần phải có chỉnh sửa về chế độ cho phù hợp với thời cuộc, giống như để duy trì được ngôi nhà tổ tiên để lại thì cần có thợ giỏi để thay và sửa các trụ cột trong nhà. Trong Seonghakjipyo (Thánh Học Tập Yếu) Yi I biên soạn năm 1575, ông muốn sửa chữa các vấn đề sai trái bằng những lời nói ngay thẳng, chẳng hạn như có câu: “Vua phải coi dân như trời nhưng thứ người dân coi như trời lại là lương thực để ăn.” Ông cũng đã đưa ra “Thập vạn dưỡng binh thuyết”, cho rằng phải chuẩn bị về quân sự, nuôi dưỡng lực lượng với 100 nghìn binh sĩ vì Joseon bấy giờ đang yếu, trong vòng 10 năm tới quốc gia sẽ khó tránh khỏi họa chiến tranh. Tuy nhiên, sự phân tranh bè phái giữa nhóm Dongin (Đông Nhân) và Seoin (Tây Nhân) trong triều Joseon cuối cùng đã khiến Yi I phải từ bỏ quan chức mà chưa thực hiện hết được ý đồ.
 
Đến năm 48 tuổi, sau hơn 20 năm làm quan, Yi I đã trở về quê và 1 năm sau đó, năm 1584 ông đã qua đời. Về sau vua Injo (Nhân Tổ) mới thương tiếc, ban cho ông tên thụy là “Văn Thành” để tưởng nhớ tới công đức của ông. Chủ trương đầy tính cải cách và thực tiễn của ông về sau đã trở thành kim chỉ nam, dẫn dắt, hình thành nên học phái Kiho (Kì Hồ học phái), nhóm các nhà Nho học ở một số địa phương theo tư tưởng của Yi I. Yi I đã trở thành người có công hiến to lớn cho sự phát triển của Nho học thời Joseon, thành sức mạnh hoạt động của giới học giả sau này. Tinh thần dựa vào nghĩa binh để hiện thực hóa xã hội của ông cũng đã được tiếp nối bởi các vị tướng lĩnh nghĩa quân chống ngoại xâm mà đứng đầu là học giả Song Si Yeol của giai đoạn cuối thời Joseon. Học thức sâu rộng vô bờ và ý chí sắt đá của Yi I cho tới nay vẫn luôn là yếu tố thức tỉnh về mặt tinh thần và là tiêu chí trong cuộc sống của người dân Hàn Quốc.
Phía sau chân dung Yi I là hình ảnh nơi ông sinh ra Ô Trúc Viên, nay ở Gangneung, và những bụi tre mọc quanh khu nhà.
Mặt sau của tờ tiền là hình ảnh trái bí và hoa mào gà (맨드라미), đây là hình ảnh được trích trong tác phẩm bình phong 8 bức, vẽ cây cỏ và côn trùng có tên là Thảo Trùng Đồ (초충도,草蟲圖), một trong những tác phẩm nổi tiếng của bà Shin Saimdang.
 
Đồng 10.000 won
Trên đồng 10.000 won là chân dung vua Sejong (Thế Tông Đại đế) – vị vua thứ 4 của triều Joseon, người sáng lập ra chữ Hangeul. Ông là vị vua được kính trọng nhất trong lịch sử Hàn Quốc và cũng đã được đúc tượng, đặt ở quảng trường Gwanghwamun cùng với tướng quân Yi Sun Shin. Vua Sejong sinh ngày 15 tháng 5 năm 1397, là con trai thứ ba của vua Taejong. Nếu chiểu theo luật thời Joseon lúc bấy giờ là chỉ có con trai cả mới được quyền kế vị ngai vàng thì ông không phải là người sẽ được lựa chọn để nối ngôi cha. Nhưng hoàng tử cả Yangryeong Daekun (Dương Lệnh Đại Quân) bị than phiền là có nhiều hành động kỳ dị không xứng làm vua, còn hoàng tử thứ hai Hyoryeong Daegun (Hiếu Lệnh Đại Quân) đã nhường quyền kế vị cho em và năm 1418 Sejong chính thức được trao quyền vương thế tử. Tháng 8 cùng năm, tiếp nhận vương quyền từ vua cha Taejong và lên ngôi vua vào năm 22 tuổi.
 
Truyền rằng ngay từ thủa nhỏ vua Sejong đã ham đọc sách tới mức từng đọc 100 lần cuốn kinh thư vào năm 1420, khi mới 2 tuổi! Sau khi lên ngôi, ông đã cho tập hợp các nhân tài trẻ tuổi có đức độ lỗi lạc trên khắp cả nước, lập “Tập Hiền Điện” là cơ quan đầu não của nghiên cứu chế độ và phương hướng đưa đất nước theo nho giáo. Kết quả là đã cho biên soạn nhiều cuốn sách như cuốn ‘Nông Sự Trực Thuyết’ là sách dạy cách làm nông nghiệp phù hợp với đất đai của Hàn Quốc, cuốn “Hương Ước Tập Thành Phương” ghi chép cách chữa trị bệnh tật lấy các loại cây thuốc được trồng ở các khe suối của Hàn Quốc. Không những thế chế độ thi tuyển quan lại, thuế má, hình pháp… cũng được sửa đổi bổ sung.
Khác với vua cha của mình, trước khi quyết định các vấn đề hệ trọng thì ông đều cho tiến hành bàn bạc lấy ý kiến. Ông đi đầu trong việc điều hoà giữa vương quyền và dân quyền, tích cực mở rộng bờ cõi như phái tướng Choi Yun Deok (1376~1554) tới vùng sông Áp Lục, cho tướng Kim Jong Seo (1383~1453) tới vùng sông Duman để khai hoang lập địa, đánh đuổi quân Yo Jin, lập 4 tỉnh 6 trấn và xác lập đường biên giới phía Bắc của Joseon. Sejong Đại đế cũng dành nhiều quan tâm tới lĩnh vực khoa học kỹ thuật như cho chế tác “máy đo lượng mưa” trước phương Tây tới 200 năm, làm ra đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời giúp bách tính trong thực tiễn sinh hoạt. Đã điều chỉnh và phát triển nhã nhạc vốn là nhạc tế lễ cung đình du nhập từ Trung Quốc vào thông qua nhạc gia tài ba Park Yeon để cho hợp với âm luật của Joseon.
 
Câu mà vua Sejong vẫn thường nói trong thời gian trị vì là: “Dân là gốc rễ của quốc gia đồng thời là mặt trời của quân chủ”. Điều đó chứng tỏ vua Sejong luôn hết lòng vì dân, đã dồn hết sức để xây dựng nên quốc gia vì bách tính. Thành tích tiêu biểu nhất về mặt chính trị của Sejong chính là sáng chế ra Huấn Dân Chính Âm. Lịch sử đã trải qua hàng nghìn năm nhưng tới tận lúc bấy giờ bách tính vẫn không có chữ viết truyền thống của dân tộc mà phải mượn chữ Hán của Trung Quốc. Rất nhiều trường hợp người dân thậm chí không thể đọc nổi bảng yết thị trên chính quốc gia của mình, dù có uất ức cũng không dám kêu than mà chỉ cam chịu. Vì thế, nhằm giúp bách tính không biết chữ Hán cũng có thể dễ dàng đọc được chữ mà ông đã sáng tạo nên 28 chữ cái bao gồm cả nguyên âm và phụ âm căn cứ trên cơ quan phát âm để làm nên loại văn tự có tính sáng tạo độc đáo và tiện lợi, có thể viết được theo âm đọc. Nhưng quá trính sáng chế cũng đã gặp phải những ý kiến phản đối mạnh mẽ cho rằng vốn đã tiếp nhận nền văn vật và chế độ của Trung Quốc giờ nếu sử dụng lời nói và chữ viết riêng của dân tộc mình thì có thể gây khích động tới Trung Quốc, vả lại đã có chữ Idu (loại chữ viết giống như chữ Nôm của Việt Nam) rồi nên không cần hệ thống chữ viết Hangeul.
 
Nhưng vua Sejong cho rằng nhất định phải cần một loại văn tự truyền thống vì lòng tự tôn dân tộc dân chủ và tiện ứng dụng thực tế nên đã nỗ lực hết sức để làm nên chữ viết cho bách tính. Huấn Dân Chính Âm hay còn gọi là “Âm chuẩn dạy cho người dân” được ban bố vào tháng 9 năm 1446 âm lịch. Với sự ra đời của Hangeul, bách tính Joseon có được chữ viết của dân tộc mình, cuộc sống trở nên thuận lợi hơn nhiều và chỉ tính riêng đến việc phát triển tiểu thuyết Hangeul của thường dân thôi thì nó đã có đóng góp to lớn vào việc mở rộng nền tảng văn hoá Joseon.
 
Vua Sejong đã dành công sức để đạt được những thành quả siêu việt ở nhiều lĩnh vực đa dạng như thế, nhưng từ những năm đầu tiên của tuổi 30 ông đã mắc bệnh phong và băng hà vào năm 1450 thọ 64 tuổi. Nhưng với đức tin “Làm cho bách tính của ta sống đúng nghĩa con người”, ông đã phát triển chính trị nho giáo mang tính lý tưởng và tạo nên kỳ tích cho triều đại Joseon thế kỷ 15. Hậu thế vẫn gọi ông là Daewang (Đại vương), vị vua vĩ đại nhất của triều đại Joseon.
 
Mặt sau của tờ tiền 10.000won là Kính thiên văn quang học (광학천체망원경) và đồng hồ thiên văn Hỗn thiên thời kế (Honch’ŏnsikye, 혼천시계, 渾天時計) do Tống Dĩ Dĩnh (송이영, 宋以穎) chế tạo vào năm 1669. Đồng hồ có một quả cầu nằm bên trong các vòng kim loại có đường kính 40 cm. Quả cầu được kích hoạt bởi một cơ cấu đồng hồ, chỉ vị trí của vũ trụ cho ở bất cứ thời điểm nào.
 
Đồng 50.000 won
Một điều thú vị là nếu học giả Yi I – Yulgok được in hình lên đồng 5.000 won thì mẹ của ông, bà Shin Saimdang (신사임당) lại được chọn in hình lên đồng tiền mệnh giá cao nhất 50.000 won. Bà nổi tiếng trong lịch sử với nhiều tư cách, vừa là một nữ nghệ sĩ tiêu biểu của giai đoạn trung kỳ thời Joseon vừa là một người mẹ với nhân cách tuyệt vời đã đào tạo nên một học giả thiên tài.
 
Văn hóa gia đình theo phụ hệ được biết là rất phát triển dưới triều Joseon nhưng nó chỉ ăn sâu bám rễ vào xã hội từ sau thế kỷ 17, còn giai đoạn giữa thời Joseon cũng đã có nhiều gia đình lấy nơi ở của phụ nữ làm trọng tâm, con gái có thể sống cùng và phụng dưỡng cha mẹ đẻ của mình. Shin Saimdang sinh ra và lớn lên trong một gia đình coi trọng mẫu hệ như vậy và với sự hậu thuẫn tích cực, mua sắm giấy bút của bà ngoại, từ khi 7 tuổi bà đã bắt đầu tự học vẽ tranh. Nhờ có sự giúp đỡ hết lòng này mà Shin Saimdang đã thể hiện được tài năng trời phú, thể hiện được những đường nét tinh tế và sắc màu phong phú qua các bức tranh như vẽ sâu cỏ, cành nho, cây mai, hoa lan v.v…
Tranh của Shin Saimdang nổi tiếng là tinh tế và sống động, tới mức có chuyện kể lại rằng, một ngày, bà vẽ tranh châu chấu đậu trên cành cây Toan tương (hoa lồng đèn) và tặng cho một người họ hàng. Khi người này trải tranh ra, bức tranh trông thực đến mức gà ngoài sân cũng tưởng là châu chấu mà lao vào mổ. Các học giả cùng thời với Shin Saimdang, ai cũng tán tụng, so sánh tài của bà với An Gyeon, một họa sĩ lớn của Joseon giai đoạn trước. Shin Saimdang còn được biết đến là người giỏi về thơ văn, từ nhỏ đã ham đọc kinh thư Nho giáo và văn chương của các bậc thánh hiền, đồng thời vẫn có tài thêu thùa, kim chỉ vượt bậc nên được coi là nữ nghệ sĩ tiêu biểu của giai đoạn trung kỳ thời Joseon.
 
Năm 1522, Shin Saimdang kết hôn ở tuổi 19, lấy chồng là Yi Won Su, một quan văn thuộc nhánh họ Yi gốc Deoksu. Do phía nhà ngoại không có con trai, nên sau khi kết hôn, được sự đồng ý của nhà chồng và gia đình chồng, Shin Saimdang thường xuyên về sống ở nhà cha mẹ đẻ. Shin Saimdang sinh hạ được 4 người con trai, 3 người con gái và sinh sống ở cả 2 bên nội ngoại như vậy khiến mọi người phải kính trọng, gọi bà là “Vị phu nhân đức hạnh họ Shin”. Sau khi kết hôn, Shin Saimdang dồn hết tâm sức vào việc giáo dục con cái. Với tình yêu thương và sự nghiêm khắc, bà đã dạy dỗ cho các con mình nên người một cách rất tuyệt vời. Cũng vì vậy mà bà đã tự đặt cho mình cái tên hiệu là Saimdang – Sư Nhậm Đường với ý nghĩa là noi theo tấm gương của bà Thái Nhậm, người phụ nữ hiền thục nhất trong lịch sử Trung Quốc, mẹ của bậc thánh quân nhà Chu là vua Văn Vương.
 
Đặc biệt, con trai thứ ba của Shin Saimdang tên là Yi I hiệu là “Lật Cốc”, sau khi đỗ thi tiến sĩ ở tuổi 13 đã đỗ đầu tất cả 9 kỳ khoa cử, được gọi là “Cửu Độ Trạng Nguyên Công”, trở thành một học giả lớn của thời Joseon. Bên cạnh đó, Shin Saimdang còn nuôi dạy cho con gái đầu lòng là Mae Chang và con trai thứ tư là Yi Woo cũng trở thành nghệ sĩ tài ba trong lĩnh vực thơ ca và hội họa. Đối với tài đức của Yi I, ở thời Joseon, nhiều người cho rằng đó chính là nhờ quá trình thai giáo của từ mẫu Shin Saimdang.
 
Không chỉ là người mẹ hiền, Shin Saimdang còn là một người vợ đảm, hết lòng khích lệ chồng trong sự nghiệp làm quan triều đình. Bà đã làm tròn bổn phận của một người vợ có đạo đức và nhân cách cao quý, luôn hỗ trợ chồng đi theo con đường chính nghĩa. Tuy thời điểm chồng đi nhậm chức Thủy Vận Phán Quan ở tỉnh Pyeongan vào năm 1551, Shin Saimdang đã qua đời ở tuổi 48 nhưng sau đó, tên tuổi của bà lại càng trở nên nổi tiếng, được người đời sau tán dương ca ngợi, trở thành biểu trưng cho người phụ nữ đức hạnh của Hàn Quốc. Chính bởi những phẩm chất đó nên bà còn được biết đến với biệt danh “Bà mẹ thông thái” và là hình mẫu lý tưởng “mẹ hiền dâu thảo” (현모양처) của người phụ nữ Hàn Quốc. Việc đưa hình ảnh một phụ nữ như vậy lên đồng tiền mệnh giá cao nhất đã truyền đi thông điệp của chính phủ Hàn Quốc cổ vũ bình đẳng giới và sự tham gia của phụ nữ vào hoạt động xã hội.
Mặt sau của tờ tiền 50.000 won là tác phẩm Nguyệt Mai Đồ (월매도,月梅圖) của họa sĩ thời Joseon Ngư Mộng Long (Omong-nyong) (어몽룡-魚夢龍) và Phong trúc đồ (풍죽도,風竹圖) của họa sĩ Lý Đình (이정-李霆).
 
Tags:

Tours đặc biệt của chúng tôi

Tour du lịch Sapa 3 ngày 2 đêm
Tour du lịch Đà Nẵng
Tour du lịch Nha Trang

 

Powered By ICT
CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI & DVDL QUỐC ANH © 2024 by ICT Group All reversed.